19.4.08


Phần I

Nhu cầu đối thoại

với các tôn giáo khác
trong Giáo Hội
ngày nay


Chương 1


Nhu cầu đối thoại

và thông cảm

Nhu cầu đối thoại trên thế giới

Thế giới chúng ta ngày càng trở nên nhỏ lại vì việc giao thông, liên lạc ngày càng tân tiến, hiện đại và dễ dàng. Mọi khoảng cách đều bị thâu ngắn lại. Các dân tộc ngày càng đi lại, giao thiệp với nhau nhiều hơn, việc giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày càng sâu rộng hơn. Do đó, các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo ngày càng xích lại gần nhau, càng có nhu cầu liên lạc, trao đổi, đối thoại, tìm hiểu nhau, để ngày càng thông cảm, yêu thương và cộng tác với nhau thân thiện hơn.
Đàng khác, con người ngày càng ý thức được sự đa dạng của vạn vật, coi sự khác biệt nhau trong mọi lãnh vực là định luật tất yếu: trong vạn vật, không vật nào hoàn toàn giống vật nào. Vì người nào, vật nào không phải là một với mình, tất nhiên phải khác với mình! Do đó, càng ngày nhân loại càng dễ chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt giữa nhau - giữa mình và người khác - cả trong lãnh vực tư tưởng, ý thức hệ, tôn giáo, văn hóa… Não trạng tự tôn – cho rằng chỉ có mình là đúng, vì thế luôn mong muốn hay đòi hỏi mọi người phải theo mình – ngày càng giảm dần theo đà trưởng thành về mặt tư tưởng của con người.
Do ý thức tôn trọng sự khác biệt tất yếu đó, con người để cho nhau được tự do hơn, tự do khác biệt nhau, tự do suy tư khác với nhau. Con người ngày càng ý thức rằng bắt người khác phải suy tư giống mình là phi lý, là phản tự nhiên. Đồng thời con người cũng cảm thấy khẩn thiết hơn nhu cầu tìm hiểu lẫn nhau, tìm hiểu sự hợp tình hợp lý của nhau để có thể thông cảm lẫn nhau, yêu thương nhau và sống hòa bình với nhau. Vì thế, nhu cầu đối thoại giữa người với người, giữa tập thể với tập thể càng ngày càng gia tăng.
Các tôn giáo cần phải làm gương cho thế giới về đối thoại
Sự khác biệt về mặt tôn giáo giữa các dân tộc cũng được coi là tất yếu như bao nhiêu mặt khác của sinh hoạt con người. Thật khó tưởng tượng được các dân tộc khác nhau, với những nền văn hóa rất khác nhau mà lại cùng phát sinh ra một thứ tôn giáo y như nhau. Cũng tương tự như thật khó tin chuyện hai người do hai cha mẹ khác nhau, thuộc hai dân tộc khác nhau, nền văn hóa cũng khác nhau, thủy thổ khác nhau, mà lại sinh ra giống y như nhau.
Nhưng cho dù khác nhau tới đâu, các tôn giáo vẫn có điểm chung này: bất kỳ tôn giáo nào trên thế giới cũng cổ võ sự đoàn kết yêu thương nhau. Nhưng muốn đoàn kết yêu thương nhau, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu và thông cảm lẫn nhau. Nhưng làm sao có thể hiểu và thông cảm nhau, nếu không có những nỗ lực tìm hiểu nhau, xích lại gần nhau, trao đổi với nhau. Làm sao có thể thông cảm lẫn nhau khi mình không thèm giao tiếp, tìm hiểu người khác, không biết người khác nghĩ thế nào mà cứ tiên thiên tự xưng mình là đúng nhất, cho rằng ai cũng phải nghĩ như mình mới đúng, và ra công tìm cách, thậm chí dùng áp lực ép người khác phải nghĩ như mình.
Nếu mọi dân tộc, mọi nền văn hóa hiện nay đang xích lại gần nhau, đang tìm hiểu, đối thoại với nhau để trở thành bạn của nhau, thì lẽ nào các tôn giáo - vốn dạy tín hữu của mình làm chuyện ấy - lại không thèm làm như vậy? Lẽ ra, các tôn giáo phải làm việc đó trước tất cả mọi thế lực, mọi tổ chức khác mới đúng với chức năng hướng dẫn tinh thần của mình. Nghĩa là các tôn giáo phải làm gương cho mọi cộng đoàn, mọi xã hội, mọi thể chế, mọi quốc gia về những gì mình đã dạy cho cả thế giới làm, là đoàn kết yêu thương nhau, đối thoại, cộng tác với nhau. Nếu không, các tôn giáo sẽ đi vào vết xe đã đổ của các kinh sư Do Thái: họ đã bị Đức Giêsu phê bình: «Những gì họ nói thì anh em hãy làm hãy giữ, nhưng đừng làm theo những gì họ làm, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3).
Có phải các tôn giáo chỉ dạy người ta đoàn kết yêu thương nhau, nhưng chính các tôn giáo lại không chịu đối xử như vậy với nhau?
Kitô giáo phải làm gương về tìm hiểu và đối thoại nhiều hơn cả
Nếu các tôn giáo nên làm gương cho các cộng đoàn xã hội khác về việc đối thoại, tìm hiểu, để đoàn kết yêu thương nhau, thì chắc chắn Kitô giáo cần phải làm gương cho các tôn giáo khác về điểm ấy hơn cả, vì Kitô giáo là tôn giáo tự hào nhất về yêu thương, coi yêu thương là đặc trưng của mình. Thật vậy, Đức Kitô đã dạy: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35). Tình yêu đó không chỉ dành cho những người gần gũi với mình, mà còn trải rộng ra cho tất cả mọi người, không trừ ai, thậm chí cả kẻ thù của mình, cả những người bách hại mình nữa (x. Mt 5,44). Vì thế, các Kitô hữu rất tự hào về đạo của mình là đạo bác ái. Do đó, Kitô giáo nên dẫn đầu các tôn giáo trên thế giới về nỗ lực tạo đoàn kết, yêu thương, đối thoại và hợp tác giữa các tôn giáo với nhau.
Tuy nhiên, các tôn giáo đã đi sau thế giới
Nhưng thử hỏi: các tôn giáo, nhất là Kitô giáo, có phải là những cộng đoàn đi bước trước và là gương mẫu cho thế giới về tinh thần đối thoại hợp tác với nhau không? – Rất tiếc không phải như vậy, vì những thế lực phi tôn giáo đã đi bước trước và đã làm gương cho các tôn giáo về mặt này. Chẳng hạn, trước khi các tôn giáo biết hợp tác với nhau để xây dựng hòa bình và bảo vệ các quyền của con người, thì một số quốc gia đã làm điều đó, lập ra tổ chức Liên Hiệp Quốc hiện nay (thành lập năm 1945).
Và trong số các tôn giáo, Kitô giáo không phải là tôn giáo khởi xướng việc đối thoại tôn giáo cũng như việc kêu gọi hợp tác giữa các tôn giáo. Thật vậy, Đại Hội Các Tôn giáo trên thế giới lần đầu tiên tổ chức tại Chicago (Mỹ) ngày 11.9. l893 lại không phải là sáng kiến của Kitô giáo hay do Kitô giáo tổ chức. Đúng ra, Kitô giáo phải đi bước trước về những việc như thế thì mới phù hợp với những niềm tự hào của mình.
Các tôn giáo chưa làm gương cho thế giới về yêu thương nhau
Đó là những sự kiện lịch sử đáng cho các tôn giáo - nhất là Kitô giáo - suy nghĩ về vai trò lãnh đạo tinh thần của mình đối với thế giới. Có lẽ các tôn giáo chưa làm gương cho thế giới về những điều mình dạy, nhất là trong cách xử sự yêu thương và hợp tác giữa các tôn giáo với nhau: các tôn giáo vẫn còn ngăn cách, không hiểu và thông cảm nhau, vẫn còn tìm cách hạ giá nhau, nghi kỵ nhau, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Thật mỉa mai thay khi có những điều tốt các tôn giáo thực hiện không nổi mà lại cứ muốn dạy cho người khác làm, muốn đóng vai trò hướng dẫn, làm thầy dạy cho những thế lực phi tôn giáo! (x. Mt 23,24). Trên thế giới cũng như trong nhiều quốc gia, chiến tranh tôn giáo thỉnh thoảng vẫn xảy ra, có khi vì những lý do chẳng đáng vào đâu, trong đó Kitô giáo không phải là vô can! Và trong chiến tranh tôn giáo, chẳng mấy tôn giáo áp dụng cho nhau những điều tốt đẹp mà mình vẫn giảng dạy trong giáo lý của mình. Chiến tranh tôn giáo nhiều khi cũng tàn khốc, dã man và bỉ ổi không kém gì những thứ chiến tranh khác!
Nhiều tín đồ trong các tôn giáo tuy chưa hiểu được giáo lý của các tôn giáo khác, hay hiểu một cách sai lạc mà đã tự hào cho mình là đúng nhất, tốt nhất, thậm chí cho rằng chỉ có mình là chân lý, kỳ dư đều là lầm lạc. Tự hào như thế có khác gì một anh chàng ngạo mạn chưa hề biết những người trong xóm có bao nhiêu tiền của, chỉ vì thấy mình có rất nhiều tiền, đã lên tiếng tự hào rằng mình là người giàu có nhất xóm! Hãy tự hỏi: Nếu người ta ai cũng có thái độ tự hào như thế đối với nhau thì thế giới này sẽ ra sao? Nếu trong thế giới, ai cũng có thái độ tự hào tự mãn như thế thì thế giới này sẽ thật khốn khổ, tình thương và sự cảm thông khó mà nẩy sinh và phát triển được, xã hội con người sẽ trở thành môi trường thuận lợi cho hận thù, nghi kỵ.
Các tôn giáo cần đối thoại để hiểu nhau và yêu thương nhau hơn
Ngày nay, sự giao lưu văn hóa khiến các dân tộc hiểu nhau hơn, dễ cộng tác với nhau hơn. Cũng vậy, sự giao lưu tôn giáo, hay việc đối thoại, trao đổi giữa các tôn giáo, sẽ làm cho các tín đồ trong các tôn giáo thông cảm với nhau, thương yêu, đoàn kết và hợp tác với nhau chặt chẽ hơn. Hai tôn giáo cũng như hai người, thường rất khác biệt nhau, vì thế, nếu không đối thoại với nhau, không tìm hiểu lẫn nhau, không cho nhau biết về mình, không cùng nhau trao đổi tư tưởng tâm tình, thì làm sao có thể quen biết, thông cảm và yêu thương nhau được?
Thế nhưng việc đối thoại tôn giáo vẫn còn xảy ra một cách rất hạn hẹp. Thỉnh thoảng mới có những đại hội tôn giáo quốc tế chỉ tạo điều kiện cho những vị đại diện cao cấp của các tôn giáo gặp gỡ, hội thảo, trao đổi. Những cuộc gặp gỡ đối thoại tôn giáo đó ít khi được tổ chức ở những cấp nhỏ hơn như quốc gia, miền, tỉnh… Do đó, việc đối thoại tôn giáo hiện nay mới chỉ là những bước khởi đầu, chưa đi đến đâu cả. Các tôn giáo thường chỉ biết về nhau một cách lý thuyết, đơn sơ, phiến diện, nhiều khi còn giải thích về nhau một cách sai lạc nữa. Nói chung, các tôn giáo còn rất nhiều thành kiến không tốt về nhau.
Các tôn giáo thường hiểu nhau một cách sai lạc
Trong nhiều quốc gia, các tôn giáo vẫn còn xa lạ với nhau, nghi kỵ lẫn nhau, hiểu xấu về nhau. Chẳng hạn, nghĩ đến Hồi giáo, người ta thường nghĩ ngay và chỉ nghĩ đến một tôn giáo thích bạo động, có vị giáo chủ nhiều vợ (đối với nhiều tôn giáo, đây là một gương xấu)… mà không hề biết đến những gì tích cực và siêu việt của tôn giáo này. Hay nghĩ đến đạo Cao Đài, các tín hữu những tôn giáo khác thường nghĩ đó là một tôn giáo «hổ lốn», thờ đủ mọi vị giáo chủ, chẳng ra đâu vào với đâu cả, mà không hề biết đến giáo lý thâm sâu và nhiệm mầu của tôn giáo này.
Tương tự như vậy, khi về Tây Ninh tìm hiểu đạo Cao Đài, tôi có gặp và trao đổi với nhiều đạo hữu Cao Đài bình dân mới nhận thấy rằng: hễ nghe nói về Thiên Chúa giáo, nhiều đạo hữu Cao Đài nghĩ ngay đến một tôn giáo cho phép ăn thịt chó - một con vật nổi tiếng trung thành, biết thương yêu, lại hiền lành và thông minh - một điều mà não trạng tôn giáo của họ không thể chấp nhận được [*1]. Thật là một cách hiểu hết sức méo mó và phiến diện về Thiên Chúa giáo, cho dù cũng có lý do của nó, vì Thiên Chúa giáo không cấm ăn thịt các con vật.
Chẳng có sự hiểu lầm nào mà không có lý của nó, thậm chí rất có lý nữa. Nhưng vượt qua được sự có lý của mình để đi đến chân lý, đi đến hiểu nhau, cảm thông nhau, yêu thương nhau là cả một sự «phá chấp», đòi hỏi phải có nhiều trí tuệ hơn là lý trí [*2]. Người khác tôn giáo với ta mà hiểu hay thông cảm được với tôn giáo của ta thì họ cũng phải «phá chấp», cũng phải vượt lên khỏi những lý lẽ của họ mới có thể hiểu ta được. Những lý lẽ ấy ta tưởng chúng là phổ quát, chung cho mọi người, nhưng thực ra chúng đã bị điều kiện hóa mỗi người mỗi khác, do nhiều yếu tố đặc thù làm nên mỗi con người, như lề lối suy nghĩ, sự giáo dục của môi trường xã hội, văn hóa, của tôn giáo, v.v… Cũng vậy, muốn hiểu họ, ta cũng phải «phá chấp» như thế, nghĩa là phải «lột xác» về mặt nhận thức luận. Phải đi vào trong tôn giáo, sống tôn giáo của họ mới có thể hiểu họ được.
Chân tính của một tôn giáo đôi khi được những người thuộc các tôn giáo khác xác định bằng những ý niệm kỳ cục như thế đấy! Không phải chỉ những người bình dân mới hiểu sai lạc về các tôn giáo khác, mà ngay cả những người trong giới lãnh đạo các tôn giáo nữa. Thật vậy, có được mấy nhà lãnh đạo tôn giáo này hiểu thấu triệt được một tôn giáo khác?
Chẳng hạn, nói tới Phật giáo, nhiều nhà lãnh đạo Kitô giáo hiểu đó là một tôn giáo có một cứu cánh rất tiêu cực, một tôn giáo quan niệm thế gian này là nguồn gốc phát sinh bất hạnh và đau khổ [*3]. Đang khi chính Đức Phật dạy rằng mọi đau khổ đều phát sinh từ tâm con người, từ cái nghiệp xấu mà con người tạo ra, có chỗ nào Phật nói rằng chúng phát sinh từ thế gian đâu? Nếu con người có tâm thanh tịnh và giũ sạch được mọi nghiệp chướng, thì lúc đó, dưới con mắt của họ, chính thế gian này lại là Quốc Độ Phật đầy trang nghiêm, tốt đẹp, hạnh phúc [*4]. Nghĩa là, Phật giáo chủ trương: chỉ cần thay đổi cách nhìn về mọi vật thì ta thấy mọi vật đều thay đổi, và Đức Phật đến là để giúp con người thay đổi cách nhìn ấy bằng sự giác ngộ hay kiến tính (thấy được bản thể chân thật của mình, đây là mục đích chính của Phật giáo). Nhờ vậy, họ nhìn thế giới bằng một cái nhìn mới, một cái nhìn không bị vướng mắc, không làm tù hãm tâm hồn họ, khiến họ cảm nghiệm được sự giải thoát, và tâm hồn họ đầy an vui: một cứu cánh như thế chẳng tích cực sao?
Thật vậy, cùng sống trong một cảnh ngộ như nhau, nhưng người giải thoát cảm thấy đó là Quốc Độ Phật, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, nhẹ nhàng, hạnh phúc, còn người chưa giải thoát thấy mọi sự chỉ là đau khổ phiền não, tâm hồn lúc nào cũng nặng nề chán nản. Những người này dù có sống ở thiên đàng đi nữa cũng không tránh được đau khổ phiền não:
«Người vui thì cảnh cũng vui,
«Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ».
Nhiều tôn giáo chỉ nhấn mạnh tới một thiên đàng mang tính khách quan, mà ít nhấn mạnh tới thứ thiên đàng chủ quan. Niết bàn của Phật giáo trước tiên phải là một thứ thiên đường chủ quan, hệ tại chính mình hơn là ngoại cảnh. Không có thứ thiên đàng chủ quan này thì chẳng có một thiên đàng khách quan nào là thiên đàng thực sự cả. Không thể có một thiên đàng đầy yêu thương cho những tâm hồn còn lãnh đạm, còn làm ngơ được trước những đau khổ của chúng sinh đồng loại. Có thứ thiên đàng chủ quan này, dù có ở địa ngục thì địa ngục cũng trở thành thiên đàng. Cứu cánh như thế không những tích cực, mà còn mang nhiều tính chủ động nữa.
Phải có lòng chân thành và đầu óc khách quan khi tìm hiểu một tôn giáo
Lập trường đối thoại của Giáo Hội hiện nay rất phù hợp với tình hình hiện tại của thế giới, điều đó đã quá rõ ràng. Và Giáo Hội toàn cầu đã bắt đầu cuộc đối thoại với các tôn giáo, với các lập trường tư tưởng khác với mình, kể từ sau Công Đồng Vatican II. Nhưng việc tìm hiểu và đối thoại với các tôn giáo mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu, chưa được hưởng ứng sâu xa và thúc đẩy mạnh mẽ trong lòng Giáo Hội. Mặc dù trong Giáo Hội, vẫn có những nỗ lực tìm hiểu các tôn giáo khác, nhưng vì chưa có những cuộc đối thoại đi vào chiều sâu, nên những nỗ lực đó vẫn còn nhiều thiếu sót. Những hiểu biết của Giáo Hội, nói chung, về các tôn giáo khác còn khá nông cạn và nhiều khi sai lạc. Chúng ta hiểu về các tôn giáo khác nhiều khi không hơn gì những người vô thần hiểu tôn giáo của chúng ta. Cuốn «Bước vào Hy Vọng» của Đức Gioan Phaolô II - phần đề cập đến Phật giáo - một phần nào nói lên điều đó.
Vả lại, não trạng của chúng ta khi tìm hiểu và đối thoại với các tôn giáo khác chưa được đúng đắn đủ: chúng ta muốn tìm hiểu các tôn giáo khác không phải vì muốn tìm thấy chân lý trong tôn giáo của họ cho bằng muốn tìm thấy những sai lầm trong đó để đả kích họ, để chứng minh rằng tôn giáo của mình siêu việt hơn, đúng hơn họ. Với một thái độ như thế, làm sao chúng ta có thể thấy được chân lý nơi họ? và khi nói về họ, làm sao chúng ta nói đúng được? Muốn thực sự hiểu được một tôn giáo khác, chúng ta cần phải có một thái độ nội tâm thích hợp, cũng như một người trong tôn giáo khác muốn thực sự hiểu được Kitô giáo, cũng phải có thái độ nội tâm như vậy. Điều đó được minh họa bằng một câu chuyện thiền sau đây:
Một giáo sư nọ đến xin một thiền sư giải thích về thiền. Trước khi nói chuyện, thiền sư lấy bình trà ra rót vào các tách trà. Nhưng ông cứ rót tiếp tục vào cái tách đã đầy tràn rồi. Giáo sư nọ bèn lên tiếng thắc mắc. Thiền sư trả lời: «Đấy! ông thấy rõ ràng là một khi tách đã đầy thì không thể rót trà thêm vào được nữa. Đầu óc ông cũng đã đầy ắp những thành kiến, những kiến thức khác rồi, làm sao nó có thể tiếp nhận Thiền vào đó được nữa?».
Thật vậy, làm sao ta có thể hiểu được một tôn giáo khi ta nghĩ tôn giáo ấy chỉ là một thứ tà đạo, một lý thuyết nhảm nhí, bất lợi cho niềm tin sẵn có của ta? Khoa học đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải có đầu óc thật khách quan mới có thể tránh được những sai lầm khi nhận xét và suy luận. Chỉ một chút chủ quan, thành kiến, đủ để phát sinh nhiều sai lầm. Cũng vậy, với một đầu óc đầy thành kiến về các tôn giáo khác, hay với một mục đích «bệnh hoạn», làm sao ta có đủ khách quan để hiểu được những chân lý thâm sâu trong các tôn giáo ấy? Những chân lý mà chính họ cũng phải có tâm thật thanh tịnh và phải thiền quán nhiều năm mới hiểu và chứng nghiệm được?
Muốn hiểu chính xác một tôn giáo,
phải sống tinh thần tôn giáo ấy

Muốn thực sự hiểu một tôn giáo nào, không những phải tìm hiểu tôn giáo ấy về mặt lý thuyết, mà còn phải thực sự sống tinh thần tôn giáo ấy để cảm nghiệm được sự sống tâm linh và siêu nhiên trong tôn giáo ấy nữa. Chân lý trong các tôn giáo không phải là những kiến thức chỉ cần học hỏi hay đọc sách là biết được, mà là một thực tại cần phải chứng nghiệm mới hiểu được. Một người vô thần hay một Phật tử không thể thực sự hiểu được Kitô giáo nếu chỉ nghiên cứu Thánh Kinh, đọc những bộ chú giải Thánh Kinh, hay đọc hết những bộ sách thần học của Kitô giáo, mà không hề tin, sống tinh thần Kitô giáo và cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Họ cũng giống như một nhà khoa học ở bên trời Tây, đọc rất nhiều tài liệu về một giống chuối tiêu đặc biệt ở Á châu, ông có thể diễn thuyết một cách rất uyên bác về giống chuối này, nhưng rất tiếc, ông chưa bao giờ có hân hạnh thực sự ăn và thưởng thức loại chuối đó. Ông chưa có một chút kinh nghiệm nào về giống chuối này cả. Cái biết của ông về nó hoàn toàn chỉ là lý thuyết, và rất nhiều điều ông suy luận thêm ra từ lý thuyết thuần lý đó đã sai với thực tế.
Cũng vậy, chúng ta không thể đứng bên ngoài các tôn giáo mà tự hào rằng mình hiểu họ, để có thể phán đoán hay phê bình về họ một cách chính xác được. Nếu chỉ dựa trên những hiểu biết thiếu chính xác của mình về một tôn giáo để rồi phê bình giá trị của tôn giáo ấy thì thật là bất công và chỉ gây nên chia rẽ, hận thù.
Tìm hiểu cách nhìn của người khác
để bổ túc cách nhìn của mình về chân lý

Không hiểu được tôn giáo khác mà đã vội đánh giá và phê bình, nhất là lại phê bình hạ thấp tôn giáo ấy xuống, thì chỉ gây chia rẽ và ác cảm giữa hai tôn giáo với nhau, có hại cho sự đoàn kết yêu thương trong nhân loại. Đó không phải là thái độ khôn ngoan của một người quân tử. Đương nhiên ta không nên tìm hiểu hay đối thoại với các tôn giáo khác chỉ để phê bình, để so sánh xem tôn giáo nào hay hơn, hoặc để có thể tự đề cao tôn giáo mình một cách có cơ sở hơn. Đối thoại như thế chẳng ích lợi gì nếu không muốn nói là có hại cho sự đoàn kết chung.
Đối thoại tốt nhất là nhằm vào việc hiểu nhau, thấy được những cái hay cái đẹp của nhau, hầu bổ túc cho những gì còn thiếu sót của tôn giáo mình, hầu có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa - hay Thực Tại Tuyệt Đối - theo những cách thức khác với cách của tôn giáo mình. Đừng vội tự hào rằng cách hiểu hay cách thức chúng ta cảm nghiệm Thực Tại Tuyệt Đối - mà người Kitô hữu gọi là Thiên Chúa - là hay là đúng hơn cách của người khác. Thực ra, mỗi cách đều có cái hay riêng của nó. Cách này tốt mặt này nhưng lại dở mặt kia, và ngược lại. Vì thế, cách này bổ túc cho cách kia. Càng thấy được Thực Tại Tuyệt Đối ấy theo nhiều cách khác nhau, ta càng quan niệm về Thực Tại ấy rõ ràng, đúng đắn và toàn diện hơn.
Mọi tôn giáo đều lấy Chân Lý Tối Thượng,
vốn vô cùng phong phú, làm đối tượng

Tôn giáo nào cũng nhắm đến chân thiện mỹ, thực hiện chân thiện mỹ trong đời sống của mình. Đối tượng và mục đích của tôn giáo là chân lý, và không phải chỉ là chân lý, mà là Chân Lý Tối Thượng. Các vị giáo chủ sáng lập các tôn giáo lớn, không một vị nào lại không tự nhận mình chứng ngộ được Chân Lý Tối Thượng ấy. Mỗi vị chứng ngộ một cách khác nhau, thậm chí rất khác nhau, và do đó giáo huấn của các ngài cũng khác nhau. Điều đó không có gì là lạ cả, vì chân lý là cả một kho tàng vô cùng phong phú, không vị nào trong một thời gian có hạn định lại có thể cảm nghiệm được hết sự phong phú vô cùng của chân lý, và truyền lại được cho hậu thế tất cả sự phong phú đó được.
Tương tự như khi nhiều người cùng vào trong một kho tàng vô cùng phong phú, thì với hai tay và những xe mình có, chỉ chở được tối đa những vật báu trong đó ra theo khả năng của mình mà thôi. Và vì kho tàng đó không phải chỉ có một thứ báu vật, mà báu vật trong đó hết sức đa dạng, nên những vật quí chở ra được thường mỗi người mỗi khác. Như thế, có thể vì sự khác nhau giữa các báu vật đó mà kết luận rằng những của quí đó ắt phải xuất phát từ những kho tàng khác nhau chăng? Nếu của báu lấy từ trong đó ra mà người nào cũng giống người nào, thì có thể nói kho tàng đó là phong phú vô cùng được chăng? Nếu kho tàng đó phong phú vô tận, thì chắc chắn rằng: không những những gì đã lấy ra rất đa dạng, mà còn lại trong kho tàng đó rất nhiều thứ của lạ mà trong số những người kia chưa hề có ai lấy ra được. Nếu không như thế thì làm sao có thể nói kho tàng đó là phong phú vô tận được?
Về vấn đề này, Đức Giêsu có nói: «Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi» (Ga 16,12). Điều đó có nghĩa là Đức Giêsu còn có rất nhiều điều phải nói nhưng chưa nói ra được về Thiên Chúa cũng như về vũ trụ vạn vật, và lý do khiến Ngài không nói được là vì trình độ tiếp thu chân lý của các môn đệ Ngài - cũng như của nhân loại thời đó - còn thấp, chưa thể lãnh hội được những chân lý cao sâu hơn về Thiên Chúa và vũ trụ: «bây giờ anh em không có sức chịu nổi». Nói ra mà người nghe không tiếp thu được thì chẳng những vô ích mà còn có thể gây hiểu lầm.
Cũng như một thầy giáo có bằng cấp tiến sĩ, nhưng lại phải dạy học cho các học sinh bậc tiểu học. Những điều thầy dạy trong lớp chỉ là một phần rất nhỏ những điều thầy biết, nhưng thầy không thể nói cho học sinh biết nhiều hơn được. Phải chờ cho trình độ học sinh lên cao hơn mới có thể nói tiếp những điều cao sâu hơn. Như vậy, những mặc khải trong Thánh Kinh không hẳn đã là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa, mà có thể còn vô số những điều khác cao sâu hơn nữa về Thiên Chúa.
Nói rằng những gì được mặc khải trong Kinh Thánh là toàn bộ chân lý về Thiên Chúa, thì quả là coi Thiên Chúa quá giới hạn và tầm thường, không siêu việt hơn cuốn Kinh Thánh họ đọc. Chẳng lẽ những gì có thể nói về Ngài lại có thể gói trọn trong một cuốn Kinh Thánh mấy trăm trang. Cũng y như một học sinh tiểu học cho rằng chương trình toán mà vị giáo sư tiến sĩ dạy cho mình là toàn bộ nền toán học của thế giới vậy. Nghĩ như thế thì thật là ngờ nghệch đáng thương!
Chân lý có thể nắm được trọn vẹn là thứ chân lý nghèo nàn
Chỉ những ai thơ ngây cho rằng chân lý rất giới hạn và nhỏ bé đến nỗi có thể «cầm nó trong ta mới dám tự hào rằng mình hay tôn giáo mình đã nắm được trọn vẹn chân lý. Chân lý mà nắm được như thế ắt phải là «thứ chân lý hạn định và nghèo nàn», không thể là thứ chân lý siêu việt, vô cùng được. Nếu cảm nghiệm được rằng chân lý đích thực thì vô cùng phong phú, không thể chứa đựng hết trong giáo lý của một tôn giáo, và mỗi tôn giáo chỉ có thể nắm được một mảnh nào đó của chân lý, thì người thực sự yêu chân lý, thay vì tự mãn với những giới hạn mình cảm nghiệm được về chân lý, sẽ ra công tìm hiểu những «mảnh chân lý» nơi người khác, nơi các tôn giáo khác, để sự hiểu biết và cảm nghiệm của mình về chân lý được đầy đủ hơn. Và đó chính là lý do đúng đắn nhất của việc đối thoại tôn giáo. Cứ theo lẽ thường mà xét, một thái độ khiêm nhường như thế mới là thái độ đúng đắn.


Nguyễn Chính Kết

___________________________________________________
Phần chú thích

[*1] Khác với não trạng Âu-Mỹ, ở Việt Nam, người ta coi chó mèo cũng là những con vật có thể ăn thịt được không khác gì heo, bò, dê, gà, vịt… Mà Kitô giáo không hề cấm ăn thịt, nên người Kitô hữu Việt Nam không có một mặc cảm tội lỗi nào khi ăn thịt chó, mèo cả. [*2] Trí tuệ và lý trí một cách nào đấy được coi như cùng một bản chất, vì đều là khả năng quan niệm và suy tư, nhưng khác nhau nhau ở mức độ cao thấp của khả năng. Trí tuệ được coi là cao hơn lý trí, vì trí tuệ thấy được cao hơn, xa hơn, nhanh hơn, sâu hơn, đặc biệt trong lãnh vực tâm linh, siêu hình. [*3] Xem ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Bước vào Hy Vọng, chương 14: «Phật giáo và Kitô giáo có thể hoán chuyển cho nhau được không? », đoạn 4. [*4] Xem Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm l: Phật Quốc. «Xá Lợi Phất có ý nghĩ: Nếu tâm của Bồ Tát tịnh, ắt Phật độ tịnh. Nhưng Đức Thế Tôn của chúng ta khi còn làm Bồ Tát, vì tâm ý chẳng tịnh, nên cõi Phật độ này mới chẳng tịnh như vầy. Phật bèn nói: Mặt trời mặt trăng há chẳng có sao, mà tại sao kẻ đui chẳng thấy hai vầng ấy? Xá Lợi Phất trả lời: Đó là lỗi ở kẻ đui chứ không phải lỗi ở mặt trời mặt trăng. Phật nói: Cũng vậy, do tội của chúng sinh nên họ chẳng thấy Quốc Độ của Như Lai là nghiêm tịnh, chứ chẳng phải lỗi ở Như Lai. Cõi đất của ta là tịnh, nhưng ngươi chẳng thấy như vậy là tại ngươi. Phạm Vương Kế Loa nói với Xá Lợi Phất: Vì lòng của ông có cao có thấp, chẳng y theo huệ Phật, nên ông mới thấy cõi này là bất tịnh. Nếu Bồ Tát giữ lẽ bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, lòng dạ sâu vững thanh tịnh, y theo Trí Huệ Phật, ắt thấy cõi Phật này là thanh tịnh. Phật nói thêm: Phật Quốc Độ của ta luôn luôn thanh tịnh. Nhưng vì muốn độ những kẻ thấp yếu ở đây, cho nên ta thị hiện ra cõi bất tịnh này với mọi thứ nhơ xấu. Tỷ như Chư Thiên, cũng ăn cơm đựng trong chén bát quí báu, nhưng tùy theo phước đức của họ mà hình sắc của cơm có khác. Cũng vậy, nếu lòng người ta tịnh, thì họ liền thấy những công đức trang nghiêm của cõi này.








_______________________________________________________________________